KINH SỐ 11
(KINH BA PHÁP QUÁN BẢY XỨ)
Nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp-cô-độc, thuộc nước Xá-vệ.
Đức Phật bảo Tỳ-kheo:
– Có bốn xả. Thế nào là bốn?
- Xả xả.
- Thủ xả.
- Hộ xả.
- Hành xả.
Thế nào là Xả-xả? Khi niệm về niệm phát sinh, không nhận lấy, không làm theo, xả bỏ mọi ràng buộc, tránh xa. Nếu sân hận từ phiền não nổi lên thì cũng không quan tâm, xả bỏ mọi ràng buộc, tránh xa. Đó gọi là Xả-xả.
Thế nào là Thủ-xả? Mắt thấy sắc không nhận lấy tướng chung, không quán sát tướng riêng. Như từ nhân duyên thấy nên ác sinh ra.
Như từ nhân duyên thấy nên Si sinh ra. Như từ nhân duyên thấy nên không-vừa-ý sinh ra. Hoặc vì nhân duyên thấy nên tệ-ác sinh ra, tất cả nên liền tự chế-ngự cảm thọ, hành động yên ổn. Chế ngự mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, là đúng như pháp, không ghi nhận tướng chung, như nói ở trên. Đó gọi là Thủ-xả.
Thế nào là Hộ-xả? Ở đây, này Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo đối với tướng thiện đã sinh, không phải một loại, như thây chết sình trướng lên chảy nước màu hồng, hoặc bị chôn chó ăn một nữa, hoặc máu chảy màu đỏ, hoặc hư nát màu xanh bầm đen, hoặc xương trắng, hoặc đầu lâu, quán sát kỹ, khéo léo hộ trì ý, không cho quên mất thiện-tướng ấy. Đó gọi là Hộ-xả.
Những gì là Hành-xả? Ở đây, này Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo tu tập giác-ý, thực hành viễn-ly, phân biệt pháp, viễn ly từng phần, như vậy cho đến khi nhận rõ giác-ý. Đây gọi là Hành-xả.
Thủ-xả, Xả-xả, Hành-xả, Hộ-xả là Bốn-xả.
Đức Phật dạy:
– Hiền giả nào thực hành không dừng lại nữa chừng, thì dứt tận các khổ, đắc đạo.
Đức Phật thuyết giảng như vậy, các đệ tử đứng dậy lạy Phật, vâng làm.