KINH SỐ 1
(KINH BA PHÁP QUÁN BẢY XỨ)
Nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp-cô-độc, thuộc nước Xá-vệ. Ngài gọi các Tỳ-kheo, các vị ấy đều xin thọ giáo.
Đức Phật dạy:
– Này Tỳ-kheo, nên biết về bảy-chốn và quan sát ba-chỗ thì mau đạt được đạo-pháp, thoát khỏi mọi trói buộc. Không còn trói buộc thì tâm lý được giải thoát, do sáng suốt nên thấy pháp, đã thấy pháp thì chứng đạo, chấm dứt sự thọ sinh, thực hiện trọn vẹn đạo hạnh, đã làm điều phải làm, không còn bị cuốn theo các nẻo luân hồi nữa.
Đức Phật hỏi các Tỳ-kheo:
– Thế nào là bảy-chỗ phải nên biết?
Này các Tỳ-kheo, hãy nghe cho rõ: Biết đúng về Sắc, biết đúng về nguồn gốc của Sắc, biết đúng về sắc-tận-diệt, biết đúng về con đường đưa đến sắc-tận-diệt, biết đúng về Sắc-vị, biết đúng về đau khổ do Sắc, biết đúng về sự cần thiết phải rời bỏ Sắc, nói chung là cần phải biết tất cả. Cũng như vậy, biết rõ về thống-dương (thọ), tư-tưởng (tưởng), sinh-tử (hành), và thức; biết rõ về thức-tập, biết rõ về thức-tận-diệt, biết rõ về con đường dẫn đến thức-tận-diệt, biết rõ thức-vị, biết rõ đau khổ do thức, biết rõ về sự thoát-ly-thức, biết đúng về thức một cách rõ ràng.
Thế nào là biết đúng về Sắc? Sắc là Bốn-đại và những gì do Bốn-đại tạo thành, đó là biết về nguồn gốc của Sắc.
Thế nào là biết đúng về nguồn gốc của Sắc? Ái-tập-khởi là sắc-tập-khởi. Đó là biết đúng về nguồn gốc của Sắc.
Thế nào là biết đúng về Sắc-diệt? Ái diệt là Sắc-diệt. Đó là biết đúng về Sắc-diệt.
Thế nào là biết đúng con đường dẫn đến Sắc-diệt? Dựa theo tám Chánh-đạo từ chánh-kiến đến chánh-định. Như vậy là biết đúng con đường dẫn đến Sắc-diệt.
Thế nào là biết đúng Sắc-vị? Do tham ái về Sắc, nên hỷ sinh, dục sinh. Như vậy là biết đúng về Sắc-vị.
Thế nào là biết đúng về sự khổ não của Sắc? Sắc là pháp vô-thường, khổ, thay-đổi. Như vậy là biết đúng về sự khổ não của Sắc.
Thế nào là biết đúng về sự thoát-ly-sắc? Giải thoát mọi dục tham về Sắc, vứt bỏ Dục, xa lánh Dục. Như vậy là biết đúng về sự thoát-ly khỏi Sắc.
Thế nào là thống-dương (thọ), biết rõ về sáu thống-dương (sáu thọ). Mắt tiếp xúc đối tượng sinh thống-dương (thọ); tai, mũi, miệng, thân, ý tiếp xúc sinh ra thống-dương (thọ). Như vậy là biết về thống-dương (Thọ).
Thế nào là biết rõ nguồn gốc của thống-dương (thọ)? Xúc tập khởi là thống-dương (thọ) tập khởi. Như vậy là biết sự tập khởi của thống-dương (thọ).
Thế nào là thống-dương (thọ) tận? Xúc diệt là thống-dương (thọ) tận. Như vậy là biết đúng về thống-dương (thọ) tận.
Thế nào là biết về con đường đưa đến thống-dương (thọ) tận diệt? Nhờ vào tám Chánh-đạo từ chánh-kiến đến chánh-định. Như vậy là biết đúng về con đường đưa đến thống-dương (thọ) tận diệt.
Thế nào là biết về thống-dương vị? Do thống-dương (thọ) nên tìm cầu sự ưa thích. Như vậy là biết đúng về thống-dương-vị.
Thế nào là biết về mọi khổ não của thống-dương? thống-dương là pháp vô thường, thay đổi, tạo sự khổ não cho tâm ý. Như vậy là biết đúng về sự khổ não của thống-dương (thọ).
Thế nào là biết về sự thoát ly khỏi thống-dương (thọ)? Ham muốn về thống-dương (thọ) tiến triển thành tham-ái, vậy nên phải vượt qua tham-ái. Như vậy là biết đúng về sự thoát ly khỏi thống-dương (thọ).
Thế nào là biết đúng về tư-tưởng (tưởng)? Là sáu tư-tưởng thuộc thân, như mắt tiếp xúc sinh tư-tưởng; tai, mũi, miệng, thân, ý tiếp xúc sinh tư-tưởng. Như vậy là biết đúng sáu tư-tưởng (tưởng).
Thế nào là biết đúng về nguồn gốc của tư-tưởng (Tưởng)?
Xúc-tập là tư-tưởng-tập. Như vậy là biết đúng về tư-tưởng-tập khởi từ xúc.
Thế nào là tư-duy đến ác? Hướng đến ác là tập-khởi của khổ-não. Vì vậy, Ta giảng dạy phải từ bỏ ác-hạnh về thân. Nếu Tỳ-kheo từ bỏ ác-hạnh về thân, thì đạt được lợi ích, được an ổn. Vì vậy, Ta giảng dạy phải từ bỏ thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác.