KINH TẠP A HÀM - QUYỂN 33
雜阿含經Hán dịch: Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-Đà-La
Việt dịch: Thích Đức Thắng
Hiệu đính & Chú thích: Thầy Tuệ Sỹ.
SẰN-ĐÀ CA-CHIÊN-DIÊN
KINH SỐ 1438
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong tinh xá Thâm cốc tại làng Na-lê. Bấy giờ Thế Tôn bảo Sằn-đà Ca-chiên-diên:
“Nên tu thiền chân thật, chớ tập thiền ngang ngạnh. Như ngựa ngang ngạnh, cột nơi cạnh máng cỏ chuồng ngựa, nó không nghĩ: ‘Ta phải làm gì? Ta không phải làm gì?’ mà chỉ nghĩ đến thóc và cỏ. Cũng vậy, trượng phu tu tập nhiều với tham dục triền, cho nên, vị kia bằng tâm tham dục mà tư duy, không biết như thật con đường xuất ly, tâm thường rong ruỗi, tùy theo tham dục triền mà cầu chánh thọ. Đối với sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi, tuy tu tập nhiều, cho nên, đối với đạo xuất ly không biết như thật; với tâm bị trùm kín bởi nghi mà tư duy để cầu chánh thọ.
Này Sằn-đà, nếu thật là ngựa thuần giống thì khi cột nơi cạnh máng cỏ chuồng ngựa, nó chẳng nghĩ đến cỏ, nước, mà chỉ nghĩ đến việc kéo xe. Cũng vậy, trượng phu không niệm tưởng tham dục triền mà an trụ, biết như thật sự xuất ly; không với tham dục triền mà cầu chánh thọ; cũng không bị quấn chặt bởi sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi, mà phần nhiều an trụ vào xuất ly; biết như thật về các triền sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi; không với nghi triền mà cầu chánh thọ.
Như vậy, Sằn-đà, Tỳ-kheo thiền như vậy không y cứ vào đất tu thiền, không y cứ vào nước, gió, lửa, không, thức, vô sở hữu, phi tưởng phi phi tưởng mà tu thiền; không y cứ vào thế giới này, không y cứ vào thế giới khác, không phải mặt trời, mặt trăng, không phải thấy, nghe, cảm, biết, không phải đắc, không phải cầu, không phải tùy giác, không phải tùy quán mà tu thiền. Này Sằn-đà, nếu Tỳ-kheo nào tu thiền như vậy, những Thiên-chủ Y-thấp-ba-la, Ba-xà-ba-đề đều cung kính, chắp tay, cúi đầu, làm lễ mà nói kệ tán thán:
Nam-mô Đại-sĩ phu! Nam-mô Đại-sĩ phu! Vì tôi không thể biết, Ngài nương đâu mà thiền!” |
Bấy giờ, Tôn-giả Bạt-ca-lợi đang đứng sau Phật cầm quạt hầu Phật. Bạt-lợi-ca liền bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo làm sao nhập thiền mà không y cứ vào đất, nước, lửa, gió… cho đến giác quán mà tu thiền định? Làm sao Tỳ-kheo tu thiền được những Thiên-chủ Y-thấp-ba-la, Ba-xà-ba-đề chắp tay, cung kính, cúi đầu, làm lễ và nói kệ tán thán:
Nam-mô Đại-sĩ phu! Nam-mô Đại-sĩ phu! Vì tôi không thể biết, Ngài nương đâu mà thiền!” |
Phật bảo Tỳ-kheo Ba-lợi-ca:
“Tỳ-kheo, đối với địa tưởng có thể điều phục địa tưởng, đối với thủy, hỏa, phong tưởng, Vô lượng không nhập xứ tưởng, Thức nhập xứ tưởng, Vô-sở-hữu-xứ nhập xứ tưởng, Phi tưởng phi phi tưởng nhập xứ tưởng; thế giới này, thế giới khác, mặt trời, mặt trăng, thấy, nghe, cảm, biết; hoặc đắc, hoặc cầu, hoặc giác, hoặc quán, đều điều phục các tưởng kia.
Này Bạt-ca-lợi, Tỳ-kheo tu thiền như vậy, không y cứ vào đất, nước, lửa, gió… cho đến không y cứ vào giác, quán để tu thiền. Này Bat-lợi-ca, Tỳ-kheo nào tu thiền như vậy, thì các Thiên-chủ Y-thấp-bà-la, Ba-xà-ba-đề đều cung kính, chắp tay, cúi đầu làm lễ và nói kệ tán thán:
Nam-mô Đại-sĩ phu! Nam-mô Đại-sĩ phu! Vì tôi không thể biết, Ngài nương đâu mà thiền!” |
Khi nghe Phật nói kinh này, thì Tỳ-kheo Sằn-đà Ca-chiên-diên xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Tỳ-kheo Bạt-lợi-ca không còn khởi các lậu, tâm được giải thoát.
Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo Bạt-ca-lợi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.